Người Nhật thời Edo bắt đầu học tiếng Anh như thế nào?
Khi những chiến hạm màu đen của Matthew Perry xuất hiện, buộc nước Nhật đang bế quan tỏa cảng phải mở cửa giao thương, thì cũng là lúc tiếng Anh trở thành công cụ cần thiết để Nhật Bản kết nối với phương Tây.
Trong đó, Hà Lan là quốc gia duy nhất từ phương Tây, với hoạt động giao thương chủ yếu tập trung ở hòn đảo Dejima, tỉnh Nagasaki. Do đó, hầu hết tri thức phương Tây (y học, khoa học, chính trị, công nghệ và kỹ thuật) được du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ này đều thông qua phong trào “Rangaku” (蘭学 - Hà Lan học). Tiếng Hà Lan cũng trở thành ngôn ngữ chính để tầng lớp trí thức Nhật Bản học tập, nghiên cứu văn hóa và kỹ thuật châu Âu. Họ được gọi là các học giả Rangaku (蘭学者).
Cho đến cuối thời Edo, khi Hạm đội Tàu đen của Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew Perry cập cảng Nhật Bản vào ngày 8/7/1853, đất nước mặt trời mọc buộc phải mở cửa sau hơn hai thế kỷ “bế quan tỏa cảng”. Các ngành nghiên cứu học thuật từ những nước châu Âu khác như Anh, Pháp, Đức cũng dần du nhập vào Nhật Bản và được gọi chung là Yogaku (洋学 - Tây học). Tầng lớp trí thức hay quan chức Mạc phủ cũng bắt đầu học tiếng Anh để thực hiện các công tác ngoại giao và kết nối giao thương với phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ.
William Adams - người Anh quốc đầu tiên đặt chân lên Nhật Bản
Tuy phải đến cuối thời Edo, tiếng Anh mới dần phổ biến hơn với giới trí thức Nhật Bản, nhưng trước đó, ngôn ngữ này đã xuất hiện tại xứ sở mặt trời mọc thông qua một samurai người Anh - William Adams - được cho là người Anh đầu tiên đặt chân lên Nhật Bản.
Là hoa tiêu của một đoàn tàu Hà Lan, William Adams cùng các thuyền viên cập bến tại vùng Bungo (tỉnh Oita ngày nay) vào những năm 1600. Bị cho là tàu cướp biển, các thủy thủ đoàn được đưa đến gặp lãnh chúa Tokugawa Ieyasu. Sau đó, William Adams tường trình sự việc qua lời của một phiên dịch tiếng Hà Lan và được tướng quân giữ lại.
Khi Mạc phủ Edo lên nắm quyền, tướng quân Tokugawa Ieyasu hết sức trọng dụng William Adams - để ông làm để ông làm người phiên dịch khi đàm phán với ngoại quốc, giao cho ông chỉ huy việc đóng thuyền. Thậm chí, tướng quân còn ban cho ông danh vị Samurai cùng cái tên Miura Anjin, đưa Adams trở thành một trong những samurai ngoại quốc đầu tiên của Nhật Bản.
Thời đó, để hiểu được những gì William Adams nói, người Nhật phải thông qua người Hà Lan biết tiếng Anh làm trung gian, rồi thông dịch viên Nhật Bản dựa vào tiếng Hà Lan để phiên dịch lại. Dần dần, một số thông dịch viên người Nhật bắt đầu học trực tiếp tiếng Anh, và ngôn ngữ này bắt đầu bén rễ tại Nhật.
Sự kiện tàu Phaeton và quyển từ điển Anh-Nhật đầu tiên
Năm 1808, con tàu Phaeton của Anh quốc đã giả dạng tàu Hà Lan để xâm nhập vào cảng Nagasaki. Mặc dù vụ việc đã được giải quyết trong hòa bình, chính quyền Mạc phủ Edo bắt đầu dè chừng Anh quốc và ra lệnh cho các thông dịch viên người Nhật tại Nagasaki phải học tiếng Anh.
Kết quả là vào năm 1814, các thông dịch viên Nhật Bản đã hoàn thành quyển từ điển Anh-Nhật đầu tiên Angeria Gorin Taisei - 諳厄利亜語林大成 (Angeria là phiên âm tiếng Nhật của Anglia - tên gọi nước Anh thời xưa). Quyển từ điển này bao gồm khoảng 6.000 từ tiếng Anh, được viết bằng chữ katakana, đặt nền móng quan trọng cho ngôn ngữ này tại xứ sở mặt trời mọc.
John Manjiro: giáo viên tiếng Anh đầu tiên của Nhật Bản
Một nhân vật quan trọng khác đã góp công đặt nền móng của tiếng Anh tại Nhật Bản là Nakahama Manjiro, hay còn được gọi là John Manjiro. Thuở thiếu thời, khi cùng bốn người bạn khác ra khơi đánh cá, ông bị bão cuốn trôi lên một hòn đảo và được một chiếc tàu săn cá voi của Hoa Kỳ cứu vớt.
Sau đó, cậu bé Manjiro theo con tàu đến Hoa Kỳ và theo học về toán học, đo lường và kỹ thuật hàng hải tại trường Oxford ở thị trấn Fairhaven, bang Massachusetts. Đến năm 1851, Manjiro trở về quê hương Nhật Bản và được lãnh chúa phiên Tosa phong làm samurai, giao nhiệm vụ thông dịch và giảng dạy tại trường học của phiên.
Khi hạm đội Tàu đen của Phó Đề đốc Perry đến để đàm phán mở cửa giao thương, Manjiro đảm nhận phiên dịch cho Mạc phủ và đóng vai trò quan trọng trong việc đàm phán Hiệp ước Kanagawa.
Nhờ có Manjiro, tiếng Anh-Mỹ gần giống với người bản xứ dần được phổ biến rộng rãi tại Nhật Bản. Tác phẩm Eibei Taiwa Shokei (英米対話捷径 - Tóm tắt đàm thoại tiếng Anh-Mỹ) do ông biên soạn được xem là sách giáo khoa tiếng Anh đầu tiên của Nhật Bản, trở thành nền tảng cơ sở cho việc dạy tiếng Anh thời bấy giờ.
Sodoku - phương pháp học tiếng Anh của người Edo
Khác với thời nay, việc học ngoại ngữ lúc bấy giờ không có băng ghi âm hay giáo trình in sẵn. Chức vụ thông dịch viên được xem như một nghề cha truyền con nối, và chủ yếu được dạy thông qua phương pháp sodoku (素読) - đọc to văn bản thành tiếng và lặp lại nhiều lần.
Người học sẽ nghe thầy đọc mẫu, bắt chước ngữ điệu và phát âm, đọc to và lặp đi lặp lại hàng trăm lần. Phương pháp này tuy đơn giản nhưng đã giúp các thông dịch viên Nhật Bản đạt được trình độ có thể sử dụng tiếng Anh để đàm phán trong các hoạt động ngoại giao khi đó.
kilala.vn
Nguồn: edojidai.info
Đăng nhập tài khoản để bình luận